Thứ Tư, 27 tháng 8, 2014

LỊCH SỬ NAM TIẾN VÀ NHỮNG CUỘC DI DÂN

.
LỊCH SỬ NAM TIẾN VÀ NHỮNG CUỘC DI DÂN

-          Từ năm 2897 đến năm 2875 trước Công nguyên: nước Văn Lang, họ Hồng Bàng rồi Âu Lạc. Triệu Đà chiếm, khởi đầu Bắc thuộc.
-          Từ năm 76 trước Công nguyên đến thế kỷ thứ 10: Ngô Quyền, 12 Sứ quân, đến triều Đinh (968 – 980), thời kỳ độc lập tự chủ, ranh giới phía Nam giáp Châu Hoan, Hà Tĩnh nay.
-          Năm 992 Lê Đại Hành huy động 3 vạn người vào huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tỉnh, đến châu  Địa Lý của Chiêm. Đây là đường bộ đầu tiên khai thông Bắc - Nam.
-          Năm 1069, vua Lý Thánh Tông vào đánh Chiêm Thành, Chế Củ bị bắt, xin nộp ba châu Bố Chánh, Địa Lý và Ma Linh. Châu Bố Chánh là Nam-Bắc sông Gianh, Quảng Bình nay. Châu Địa Lý nằm giữa Quảng Bình, nay là Lệ Thủy. Châu Ma Linh nằm ở miền Bắc Quảng Trị, nay là Minh Linh, Gio Linh. Liền sau đó vua xuống chiếu chiêu mộ dân vào ở. Hưởng ứng, nhân dân  Nghệ An vào thành họ tộc, lập các xóm thôn như Phan xá, Hoàng xá, Ngô xá, Vũ xá…(xin xem thêm sách “Ô Châu cận lục”)
-          Thời thuộc Minh, từ năm 1407, đất Chiêm Động và Cổ Lủy lại vể lại  với Chiêm Thành, do nhà Minh quản lý.
      Từ 1418 đến 1425, Lê Lợi chiếm lại Thuận Hóa. Châu huyện vẫn gọi như trước, nhưng biên cương vẫn không yên ổn.
-          Năm 1471, vua Lê Thánh Tông quyết định thân chinh tiến đánh, vây hảm thành Trà Bàn (Đồ Bàn), bắt sống Trà Toàn và chiếm đất đến Thạch Bi Sơn, đặt ra phủ Hoài Nhơn. Vùng đất mới chiếm nầy đặt tên mới là Thừa Tuyên Quảng Nam, trong đó có ba phủ, phủ Hoài Nhơn có ba huyện là  Bồng Sơn, Phù Ly và Tuy Viễn. Năm 1490, đổi Thừa Tuyên thành xứ.
-          Ngoài việc đất Quảng Bình (Châu Bố Chính) di dân theo kiểu họ tộc, trong huyện Khang Lộc có 72 làng Mai Xá, Chu  Xá, Lỗ Xá, Phan Xá, Bùi Xá, Trương Xá; ở Châu Minh Linh có 65 làng. Số quan quân đi đánh Chiêm cũng được phép ở lại. Lại khuyến khích dân Nghệ An thạo nghề sông biển, dùng thuyền vào khai thác Hòai Nhơn. Đặc biệt lại đưa phần tử tù nhân bị lưu đày, chia làm 3 bậc đi 3 nơi: lưu cận châu đi Nghê An, Hà tỉnh; lưu ngoại châu, đi Châu Bố Chánh; lưu viễn châu đi Quảng Bình
-          Từ  năm 1474, có đất Thăng Hoa, việc lưu đày được sửa đổi: lưu cận châu, đi Thăng Hoa; lưu ngoại châu đi Tư Nghĩa; lưu viễn châu, đi Hoài Nhơn.
-          Cuộc di dân thời Lê là quan trọng, người Chăm không chỗ lùi phải sống chung với người Việt, cuộc sống của dân mới yên ổn làm ăn.
-          Từ năm 1558 - 1613, Nguyễn Hoàng  theo sấm Trạng Trình: “Hoành sơn nhất đái vạn đâi dung thân” đã vào Thuận Hóa.
-          Khi Đoan quận công vào xây thành Ái Tử,  đoàn tùy tùng theo ông khá đông, gồm những nhà quyền quý ở Tống Sơn, nghĩa dõng ở Thanh Hóa, Nghệ An và khá đông kiến họ ngoại của Chúa cũng theo vào.
-          Nguyễn Hoàng đánh nhau với tướng nhà Mạc là Lập Bạo. Lập Bạo bị giết, quân sĩ đầu hàng, Chúa cho ở lại đất Cồn Tiên lập lên 36 phường.
-          Năm 1611, quân Chiêm Thành ra đánh biên giới Hoài Nhơn, Chúa đem binh đánh trả, chiếm luôn đất Phú Yên, lập hai huyện Đồng Xuân và Tuy Hòa.
-          Năm 1648 - 1687 Nguyễn Phúc Tần, chiến tranh Trịnh - Nguyễn nổ ra, trong 46 năm 7 lần đánh nhau, lần thứ 5, quân Nguyễn đánh ra chiếm 7 huyện của Nghệ An suốt 5 năm, khi rút về dắt theo 3 vạn quân dân đàng ngoài, đưa vào an trí khai hoang vùng Quảng Nam cho đến Phú Yên. Lần nầy có họ Hồ ở Hưng Nguyên (Nghệ An) đưa vào An Khê. Đây là Tổ tiên của ba anh em nhà Tây Sơn.
-          Năm 1672, Trịnh Nguyễn đánh nhau lần cuối, không phân thắng bại, hai bên lấy sông Gianh làm giới tuyến, từ đó Nam Hà tách khỏi ảnh hưởng nhà Lê, hình thành một trung tâm chính trị, văn hóa, kinh tế mới là Tri Thiên – Huế.
-          Từ năm 1691 – 1725, chúa Nguyễn Phúc Chu 3 lần mở rộng lảnh thổ về phía Nam:
      1. Năm 1693 lấy nốt đất Phan Rang, Phan Thiết của Chiêm Thành.
      2.  Năm 1698, họp thức hóa hai vùng Đồng Nai và Bến Nghé của Thủy Chân Lạp, lâp ra Gia Định, với hai huyện Phước Long và Tân Bình và di dân miền Ngũ Quảng vào khai thác. Đó là vùng đất miền Đông Nam bô ngày nay. 
      3.  Năm 1714, tiếp nhận vùng đất Hà Tiên do Mạc Cửu dâng cho chúa Nguyễn, gồm An Giang, Kiên Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau.
-          Sau đó, Nghi biểu hầu Nguyễn Cư Trinh can thiệp vào cuộc động binh giữa Xiêm La, Cao Miên và họ Mạc Cửu ở Hà Tiên, để tiếp quản nốt vùng  Tầm Đôn- Lôi Lạp - Tầm Phong Long vào bản đồ Việt Nam.
-          Trong những lần vào Nam, Tây sơn bỏ ngũ lại, Nguyễn Ánh lên ngôi đã hợp thức hóa cho số người nầy, tiếp đó là tiếp nhận số “phản Thanh phục Minh”
-          Năm 1954,  Nam bộ có thêm dân miền Bắc di cư.
-          Sau năm 1975 số cán bộ, chiến sĩ; số người thiên cư từ miền Bắc vào khá đông.

Sư tầm từ nhiều nguồn